Hiệp Định Song Phương Và Đa Phương

Hiệp Định Song Phương Và Đa Phương

Hiệp định thương mại song phương (tiếng Anh: Bilateral Trade Agreements) và Hiệp định thương mại đa phương (tiếng Anh: Multilateral Trade Agreements) là một trong những công cụ quan trọng nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế.

Hiệp định thương mại song phương (tiếng Anh: Bilateral Trade Agreements) và Hiệp định thương mại đa phương (tiếng Anh: Multilateral Trade Agreements) là một trong những công cụ quan trọng nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế.

Hiệp định thương mại song phương và Hiệp đinh thương mại đa phương

Hiệp định thương mại song phương trong tiếng Anh là Bilateral Trade Agreements.

Là hiệp định thương mại giữa hai quốc gia, trong đó nêu ra những điều kiện để tiến hành các hoạt động thương mại.

Hiệp định thương mại đa phương trong tiếng Anh là Multilateral Trade Agreements.

Là hiệp định do nhiều quốc gia kí kết về các lĩnh vực hoạt động thương mại mà các thành viên cùng có nghĩa vụ thực hiện.

Hiệp định thương mại song phương

Nếu cả hai bên kí kết đều là thành viên của WTO, thì hiệp định thương mại song phương thường hướng tới một chương trình tạo quan hệ thương mại và xúc tiến thương mại thuận lợi hơn so với những qui định thuộc WTO.

Nếu một bên không phải là thành viên của WTO, hiệp định thương mại song phương hướng tới những qui định của WTO, theo đó thỏa thuận các biện pháp cho dòng thương mại được lưu thông thuận lợi và giải quyết các vấn đề được nhanh chóng.

Quá trình thực hiện hiệp định thương mại song phương thường có kiểm điểm định kì sự phát triển của thương mại ở cấp bộ trưởng hoặc ở cấp chuyên viên.

Thông thường, hiệp đinh thương mại đa phương có nhiều thành viên đại diện cho các quốc gia tham gia buôn bán ở các mức nhỏ, trung bình và lớn.

Quy chế thành viên trong hiệp định này là rộng, nhưng muốn gia nhập thường phải thể hiện được chế độ thương mại của họ phù hợp với mục tiêu của hiệp định và các điều kiện thâm nhập thị trường của họ gần giống như điều kiện của các thành viên khác; nếu chưa phù hợp, cần thiết phải có sự điều chỉnh theo yêu cầu của từng hiệp định.

Mục tiêu: Hiệp định thương mại đa phương nhằm mở rộng và tự do hóa thương mại trong các điều kiện không phân biệt đối xử , công khai và minh bạch , được qui định trong các quyền và nghĩa vụ. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ, tất cả các bên sẽ có cơ hội nâng cao phúc lợi thông qua các quan hệ thương mại.

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch - GATT là hiệp định thương mại đa phương đầu tiên có hiệu lực từ năm 1948.

Ngày 1 tháng 1 năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO ra đời thay thế cho GATT, theo đó các thành viên WTO kí hiệp định thương mại đa phương với 4 lĩnh vực điều chỉnh quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên, đó là:

- Hiệp định thương mại hàng hóa (GATT): Hiệp định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa vật chất như nguyên liệu thô, bán thành phẩm và thành phẩm, trong đó các bên kí kết hiệp định thống nhất các nguyên tắc thực hiện trong quan hệ buôn bán.

- Hiệp định Thương mại dịch vụ (GATS): Hiệp định về cung cấp dịch vụ theo các điều kiện thương mại cho đối tác thông qua thương mại xuyên biên giới hay thông qua hiện diện thương mại.

- Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (TRIPs). Hiệp định này nhằm giải quyết căng thẳng gia tăng trong thương mại quốc tế nảy sinh từ những tiêu chuẩn khác nhau để bảo hộ và thực hiện quyền sở hữu trí tuệ.

- Hiệp định về Các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs). Hiệp định này đề cập đến những yêu cầu đối với nhà đầu tư nước ngoài ở những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại như: hàm lượng nội địa, cân đối thương mại, cân đối ngoại hối, tiêu thụ trong nước, yêu cầu sản xuất, tỉ lệ nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, chuyển lợi nhuận, tỉ lệ góp vốn...

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính)

Hiệp định song phương là Điều ước quốc tế được ký kết bởi hai quốc gia.

(TBKTSG Online) - Liệu còn nên đàm phán (song phương) nữa không khi ở đối phương dường như không có khái niệm “hòa bình”, “thiện chí”, “tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”, khi “biện pháp hòa bình” là một thứ xa xỉ với họ.

Trước những thái độ và hành động hung hăng, hiếu chiến trong một chiến lược dài hơi của Trung Quốc nhằm ôm gần trọn Biển Đông, Việt Nam vẫn chủ trương lựa chọn thương lượng, đàm phán song phương với gã hàng xóm khổng lồ xấu tính này theo đúng tinh thần của “Thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo về giải quyết các vấn đề trên biển”, được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc vào tháng 10-2011 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Cũng theo thỏa thuận này, đàm phán đa phương sẽ chỉ diễn ra với các nước liên quan khi tranh chấp liên quan đến các nước đó.

Tinh thần của thỏa thuận trên là tích cực khi, theo lời của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, nó đã xác định các nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và tính đến lợi ích của các bên liên quan. Thỏa thuận này “đòi hỏi nỗ lực và thiện chí của cả hai bên, (cần) tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC)”.

Với tinh thần này, và quả thực là nếu tranh chấp chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc thì việc chỉ đàm phán, thương lượng song phương là điều tỏ ra rất logic, và đối với Việt Nam, dường như chẳng có lý do gì phải kéo thêm một bên thứ ba (không liên quan) vào bàn đàm phán Việt-Trung để làm rắc rối thêm tình hình, thậm chí làm phương hại đến “tình hữu nghị tốt đẹp, lâu đời và quý báu” giữa hai nước.

Còn đối với Trung Quốc thì dù có hay không có thỏa thuận này, họ vẫn chỉ chủ trương giải quyết song phương với tất cả các bên có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc vì đã nhuần nhuyễn chiến thuật bẻ từng chiếc đũa trong bó đũa.

Tuy nhiên thực tế lại thường là rất khác với cách nhìn nhận của một số người Việt Nam, và vì thế làm cho việc kiên quyết chỉ giải quyết tranh chấp bằng thương lượng song phương trở thành cái vòng kim cô đối với chúng ta.

Liệu còn nên đàm phán (song phương) nữa không khi ở đối phương dường như không có khái niệm “hòa bình”, “thiện chí”, “tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”, khi “biện pháp hòa bình” là một thứ xa xỉ với họ. Bởi họ đã quen thói luôn tay dao, tay đấm của kẻ côn đồ, mồm thì câu trước hòa bình đi liền sau đó là hăm dọa, bôi nhọ, vu khống, tai thì đậy lại không để một chữ phải quấy nào của đối phương lọt được vào trong?

Đàm phán, thương lượng trong bối cảnh của một kẻ yếu thế trước một kẻ tham lam và bạo ngược như vậy thì đương nhiên kết quả hiếm khi là tốt đẹp cho kẻ yếu thế.

Liệu có nên đàm phán song phương nữa không khi đã biết rõ Trung Quốc chả bao giờ thực tâm không mưu tính vụ lợi, đã và đang sẵn sàng vứt bỏ và xổ toẹt mọi thỏa thuận với cam kết đẹp đẽ, đầy tình hữu nghị đồng chí và anh em, coi chúng chỉ là một loại vũ khí dùng để khống chế sự phản kháng củaViệt Nam? Có nên hy vọng thuyết phục được Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thay đổi 180 độ quan điểm của mình khi ông ta nói tại cuộc họp song phương với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam rằng giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt trong lãnh thổ Trung Quốc và Việt Nam "cản phá"?

Và thêm nữa, liệu có nên đàm phán song phương nữa không khi những tranh chấp dù trên bề mặt chỉ là giữa Việt Nam và Trung Quốc lại ít nhiều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến các bên thứ ba, mang tính khu vực và quốc tế, ví dụ như quyền tự do và an ninh hàng hải ở Biển Đông, và sự ổn định của khu vực? Đến hàng xóm đánh cãi nhau còn làm khuấy động làng xóm nữa là tranh chấp chủ quyền giữa hai quốc gia, đặc biệt khi luôn có thùng thuốc súng đặt bên cạnh.

“Đóng cửa bảo nhau”, nói chuyện hai bên không được, không nên thì ắt phải có bên thứ ba tham gia. Bên thứ ba này không nên chỉ được hiểu là những nước trực tiếp có tranh chấp với cả Việt Nam và Trung Quốc, và cũng không nhất thiết phải là một đồng minh quân sự với Việt Nam để tăng thêm đối trọng trong thương lượng song phương. Đừng cố gắng hiểu và bị làm cho hiểu theo nghĩa này để ta tự trói tay ta.

Bên thứ ba này có thể là trọng tài quốc tế để phán xử ai đúng ai sai, là các tổ chức khu vực và quốc tế, là những nước, những lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý, thấy sự bất bình thì lên tiếng bênh vực kẻ yếu và chính nghĩa, phê phán kẻ bạo ngược.

Nhưng những tổ chức, những nước và những lực lượng này sẽ không tham gia nếu Việt Nam chủ động “đóng cửa bảo nhau” với Trung Quốc, không cho thế giới bên ngoài biết điều gì đang diễn ra bên trong, trên bàn thương lượng, hoặc tỏ ra cho họ thấy Việt Nam không cần đến họ, hoặc ngược lại, không làm cho họ thấy được rằng họ cần phải lên tiếng ủng hộ Việt Nam, có thể vì chính lợi ích của bản thân họ.

Sự chủ động và tích cực tố cáo Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam trên trường quốc tế trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 hiện nay là điều tích cực, cần được tiếp tục tăng cường, xét từ góc độ nêu trên. Và cũng từ đây có thể thấy Việt Nam thực tế đã phần nào thoát ly ra khỏi cái vòng kim cô “thỏa thuận” giải quyết song phương nói trên trong cách tiếp cận và giải quyết vụ việc của mình.

Và một số bài học có thể rút ra được ở đây.

Thứ nhất, đừng tự đặt mình vào cái bẫy, tự trói mình vào bất cứ một cam kết, thỏa thuận nào như thỏa thuận nêu trên trong những vụ việc liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, mặc dù chúng có thể là sản phẩm tất yếu của sự giao thoa giữa hai Đảng ở hai nước.

Thứ hai, cho dù đôi khi thực sự chỉ cần, chỉ là thương lượng giải quyết song phương thì hãy công khai hóa, minh bạch hóa tối đa quá trình và nội dung thương lượng, cũng như kết quả cho công luận trong và ngoài nước biết. Có như vậy thì vấn đề song phương mới có thể biến thành đa phương nếu thương lượng song phương bế tắc, không đạt được kết quả như công luận kỳ vọng.

Thứ ba, qua những vụ việc thế này ta mới thấy rõ ai và ta có ai là bạn, là đồng minh, hoặc ít ra là “chơi được”. Bởi vậy, song phương hay đa phương không thực sự quan trọng bằng ta có và tạo dựng được những chỗ dựa nào khi khó khăn, để tăng thêm dũng khí và tư thế tự cường trong thương lượng giải quyết tranh chấp hay không.

Mà để thêm bạn thì chỉ còn cách thực tâm đi chung đường với bạn.

JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.

You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.