Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Tôi dịch tập Dhammapada ra tiếng Việt để cúng dường Phật đản 2513 (1969). Quyển kinh Dhammapada thuộc tập Khud daka Nikaya (Tiểu bộ kinh) được xem như quyển Thánh kinh trong Phật giáo và trở thành một trong những tập sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trong kinh sách Phật giáo. Không những 423 bài kệ trong kinh này tóm thâu tinh hoa giáo lý đức Phật, nhưng nhiều bài kệ đã trở thành những lời dạy chính đức Phật thân thuyết. Và đọc những bài kệ này, chúng ta cảm thấy như thân nghe chính lời Phật dạy từ hơn 2000 năm vang lại. Giá trị bất hủ của tập Dhammapada là ở chỗ này, và ta cảm thấy không còn sợ trung gian của các vị Tổ sư kết tập kinh điển.
Chúng tôi cho dịch theo thể kệ năm chữ một, để thật trung thành với nguyên văn, và quí vị sẽ thấy rõ sự cố gắng của chúng tôi, đã dịch hết sức sát với nguyên văn, và nhiều bài kệ có thể xem không thêm, không bớt, một chữ Pali chúng tôi cũng cố gắng tôn trọng đến mức tối đa. Vì đây là thể kệ chứ không phải là thể thơ nên không có thi hóa trong bản dịch của tôi.
Dịch tập Dhammapada này ra thể kệ, chúng tôi chỉ có một tâm nguyện mong sao những lời dạy này của đức Phật sẽ soi sáng dẫn đường cho mọi hành động, tâm tư, ngôn ngữ của chúng ta. Và ở trong một thời đại đầy máu lửa đau thương nước mắt, đầy những phân hóa, hỗn tạp, hận thù này, những lời dạy này của đức Phật xoa dịu một phần nào cho tâm tư đã quá căng thẳng hay buồn nản của con người Việt Nam, làm con người Phật tử trở lại con người Phật tử.
Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh.
Once there were two friends of noble family, two bhikkhus from Sāvatthi
Thuở ấy, ở thành Sāvatthi, có hai vị công tử kết bạn với nhau cùng đi xuất gia.
One of them learned the Tipiṭaka and was very proficient in reciting and preaching the sacred texts. He taught five hundred bhikkhus and became the instructor of eighteen groups of bhikkhus.
Một trong hai vị học Tam tạng kinh điển, thông suốt kinh điển và thuyết giảng giáo pháp. Vị giảng dạy cho năm trăm vị Tỳ khưu và hướng dẫn mười tám nhóm Tăng lữ.
The other bhikkhu striving diligently and ardently in the course of Insight Meditation attained arahatship together with Analytical Insight.
On one occasion, when the second bhikkhu came to pay homage to the Buddha, at the Jetavana monastery, the two bhikkhus met.
The master of the Tipiṭaka did not realize that the other had already become an Arahat. He looked down on the other, thinking that this old bhikkhu knew very little of the sacred texts, not even one out of the five Nikāyas or one out of the three Piṭakas. So he thought of putting questions to the other, and thus embarassed him.
The Buddha knew about his unkind intention and he also knew that as a result of giving trouble to such a noble disciple of his, the learned bhikkhu would be reborn in a lower world.
Đức Phật biết rõ ý định không tốt của ông và Ngài cũng biết rõ quả báo gây khó khăn cho một vị đệ tử phạm hạnh, vị Pháp sư này sẽ tái sanh vào cõi đọa xứ
So, out of compassion, the Buddha visited the two bhikkhus to prevent the scholar from questioning the other bhikkhu. The Buddha himself did the questioning. He put questions on Jhānas and Maggas to the master of the Tipiṭaka; but he could not answer them because he had not practiced what he had taught.
Thế nên, vì lòng bi mẫn, Đức Phật ngự đến chỗ hai vị tỳ khưu để ngăn vị Pháp sư chất vấn bạn. Đức Phật hỏi vị Pháp sư câu hỏi về Thiền và Đạo; nhưng vị này không thể trả lời vì vị này không thực hành những gì vị ấy đã dạy.
The other bhikkhu, having practised the Dhamma and having attained Arahatship, could answer all the questions. The Buddha praised the one who practised the Dhamma (i.e. a vipassaka) but not single word of praise was spoken for the learned scholar (a ganthika).
Vị tỳ khưu kia, thực hành Sa môn Pháp và chứng đắc Đạo Quả A la hán, có thể trả lời tất cả các câu hỏi. Đức Phật tán thán vị tỳ khưu chuyên về Pháp hành (vipassaka) , không một lời khen ngợi vị tỳ khưu về Pháp học (ganthika).
The president disciples could not understand why the Buddha had words of praise for the old bhikkhu and not for their learned teacher.
Các đệ tử hiện hữu không thể hiểu tại sao Đức Phật chỉ khen ngợi vị tỳ khưu lớn tuổi mà không một lời khen ngợi vị thầy Pháp sư của họ.
So, the Buddha explained the matter to them. The scholar who knows a great deal but does not practise in accordance with the Dhamma is like a cowherd, who looks after the cows for wages, while the one who practices in accordance with the Dhamma is liked the owner who enjoys the five kinds of produce of the cows. (the five kinds of produce of the cows are milk, cream, butter, butter-milk and ghee)
Thế nên, Đức Phật đã giảng giải vấn đề cho họ. Vị Pháp sư thông suốt nhiều nhưng không thực hành Giáo pháp thì giống như mục đồng chăn bò cho người kiếm sống; trong khi người thực hành Giáo pháp thì giống như người chủ đàn bò có thể thưởng thức năm phẩm vị của đàn bò. (5 sản phẩm từ sữa là sữa tươi, sữa chua, bơ, sanh tô và đề hồ.)
Thus, the scholar enjoys only the services rendered to him by his pupils but not the benefits of Magga-phala.
Như vậy, vị Pháp sư chỉ thọ hưởng những phục vụ do học trò đem lại mà không được hưởng phần phước lợi lạc của Đạo-Quả Sa môn
The other bhikkhu, though he knows little and recites only a little of the sacred texts, having clearly comprehended the essence of the Dhamma and having practised diligently and strenuously, is an ‘anudhammacāri, who has eradicated passion, ill will and ignorance. His mind being totally freed from moral defilements and from all attachments to this world as well as to the next he truly shares the benefits of Magga-phala.
Vị tỳ khưu kia dù biết rất ít và chỉ tụng một ít kinh điển nhưng liễu ngộ rõ ràng được cốt lõi của Giáo pháp và tinh tấn thực hành, là người hành trì Chánh pháp, từ bỏ tham, sân và si. Tâm vị ấy hoàn toàn tẩy sạch khỏi những ô nhiễm và các chấp thủ của thế gian cũng như được chia xẻ hưởng phần phước thật sự của Đạo-Quả Sa môn.
Then the Buddha spoke in verses as above.
Rồi Đức Phật nói lên hai câu kệ trên