5 lữ khách đang xem tour ngay lúc này!
5 lữ khách đang xem tour ngay lúc này!
1. Tìm hiểu đời sống kinh tế thời Lý
Đọc thông tin, quan sát hình ảnh hãy:
Tình hình nông nghiệp dưới thời Lý: nông nghiệp là nền tảng kinh tế chủ yếu:
=>Nông nghiệp phát triển được mùa liên tục
Việc cày ruộng điền của nhà vua có ý nghĩa: khuyến khích nông dân tích cực sản xuất,thúc đẩy nông nghiệp phát triển, thể hiện quan hệ gần gũi giữa Vua và dân
Việc thuyền buôn nhiều nước đến buôn bán với Đại Việt đã phản ánh tình hình thương nghiệp của nước ta hồi đó khá phát triển cả trong và ngoài nước,công trình kiến trúc đa dạng, phong phú,...
Tập thơ chọn "Lối tình" của Đào Đức Tuấn (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn) - Ảnh: Phong Lan
Cái khái niệm giang hồ trong thơ của Tuấn đa tầng đa nghĩa đa mang, không chỉ khoát mây rẽ gió, bụi bặm nước non, ra Bắc vào Nam, ngược Tây xuôi Đông, lấy rượu làm mực.
Từ "ngược xuôi / tuổi hai mươi / la đà / túng phóng / chữ văn / chữ báo / chữ tình" cho đến "tình ta xế bóng qua đầu / câu thơ đơn lẻ làm đau cõi người / chòng chành ao ước chữ nguôi / viết trầy viết trợt vẫn rơi lời buồn / thâu dìa nơi Tịnh Ngõ thôn / làm chân ngư phủ cho hồn nên hương" là khoảng cách bao xa, bao lâu, hình như người đọc không cần hỏi và tác giả cũng không có ý định vạch khắc rõ ràng.
Điều cần thiết là sau những ngẫu cảm, người đọc nhận biết một trái tim đau đáu, tín niệm rằng: "chữ nghĩa phập phừng / sợi tóc ngàn cân".
Nhà thơ khiêm cung tự trào "lạc bước" trong không gian: "hỏi ai ai biết ai mà tỏ / thực còn chưa thấy huống chi mơ", tự kiểm "lạc lối" giữa thời gian: "Đi qua khát vọng đi qua vô vọng / rầu dìa tay không / cỏ cây lao xao cây cỏ lào xào / đời vẫn chiêm bao".
Đạo là đường, đường chỉ ý nghĩa khi người đặt bước chân đi, hay có lúc ngồi yên mà tâm thế xê dịch, nén cái động trong cái tĩnh, tìm cái có trong cái không.
Anh nhặt lên những con chữ của tươi ròng đời sống và của cả đâu đó tự hư vô. Khi còn trẻ, thi sĩ đã tìm nhịp bước hòa hoãn giữa thời tốc độ: "xin hãy khoan / thời gian vô tình / vô tự / mỏi mong bụi bờ / xa giá thinh không / thinh không / thinh không / thinh không".
Xuất thân từ "dân trường chuyên" Lê Quý Đôn thời trung học đến "dân Văn Khoa", ngoảnh lại bốn chục năm cõng chữ cõng tình, Đào Đức Tuấn ý thức: "Ngày ngày ăn với chữ, ngủ với chữ, thở bằng chữ.
Thế nhưng cứ mãi băn khoăn: Vì sao mình viết? Để mưu sinh. Để tỏ bày. Để vỗ về. Để vui. Để buồn. Để sống. À thì ra, đã như hơi thở rồi mà còn truy vấn, định nghĩa, trả lời làm chi.
Không viết là chết" và nói với bạn đồng môn rằng "Tôi lọ mọ chép lại mấy dòng lạc lối giang hồ tình. Chớ không bốn mươi năm nữa thì mọi sự gió thoảng mây bay". Cái câu ấy Đào Đức Tuấn buột miệng ngỡ như nhẹ hẫng mà sâu nặng lắm.
Buổi ra mắt sách thơ chọn "Lối tình" của Đào Đức Tuấn sẽ được tổ chức chiều 20-12 tại TP Quy Nhơn
Đào Đức Tuấn triền miên giang hồ chữ trên lối tình phi thời gian, từ: "Buổi nào không màu gì cả / thời gian chăng nghĩa lý chi / hồn thả tình trôi bất định / ngoài kia lá vỡ đương thì" đến"tóc tình phong kín cỏ lau / đường xưa cảnh cũ trao nhau từ đầu"…
Để rồi anh nhận biết trong bảng lảng: "Đồi cỏ tím tuổi thơ lầm lụi / tóc xanh em tết thành mơ / cho anh bây giờ / một thời trẻ trai lận đận / bước thấp bước cao về nơi vô tận / lại thấy mờ xa cỏ rối chân trời".
Ở chặng đường nào đó trong thời điểm nào đó, khi "Hồn thơ thông thốc như trần gió / lận tiếng chuông chiều ủ men xanh", là gió bụi tao tác "áo xiêm mỹ nữ hai hàng / lối về địa ngục thiên đàng nơi đâu".
Thực ra, lý giải chỉ để mà lý giải, trong tâm hồn thi sĩ, mọi ranh giới đều mơ hồ "Ừa làm sao mà yêu được nữa / xa xắm nhân duyên lòng cũng kiệt cùng / đời mình vô minh tình mình hữu hạn / ghềnh thác nẻo yêu thăm thẳm trùng phùng".
Ở đất nước ta, không ít thi sĩ ngỡ như giang hồ ngay chính nơi chôn nhau cắt rốn và gã giang hồ thi sĩ này cũng không ngoại lệ: "Quê hương là tiếng hu huơ / đành lòng phải nói vẩn vơ giang hồ / chén cơm quê đắng chẳng chờ / con không dám nuốt mắt mờ con đi".
Người đọc bắt gặp nhiều khúc thức âm điệu, êm ái như kỷ niệm: "vẫn là chút tóc tơ vương / vẫn là vạt cỏ bên đường hôm xưa / vẫn là áo trắng đong đưa / vẫn là nón trắng che mưa hai người".
Bên cạnh Xứ Nẫu quê nhà, bên cạnh những miền đất trĩu trịt gánh gồng nhật nguyệt nách rượu vai thơ, Đào Đức Tuấn nặng lòng với những con dốc, cơn mưa giọt nắng Đà Lạt, lá thông reo, những lúc trần ai khoai củ "sao chung chiêng say khướt vô biên / lục lại tim đã lần hồi mãn kiếp"…
Nhà thơ nặng lòng với những tháng ngày hào hiệp, trăn đi trở lại cùng xứ sở ngàn hoa đã vừa làm vẹt mòn vừa làm đầy đặn anh và bạn bè thời giảng đường, thư viện và ngút ngàn viễn du chữ nghĩa.
Bây giờ, trên đường đời, thi sĩ ghi khắc nhiều người nhiều cảnh, nhưng Đà Lạt vẫn chìa bàn tay ân tình ân nghĩa, nên đôi lúc ngẫu cảm, nói chuyện đẩu đâu, vẫn thấy thấp thoáng chút sương khói mơ hồ của tuổi hai mươi: "Đà Lạt leo teo / hoang sơ tuổi / nói gì đâu / sao lòng đau / tuổi trẻ / lênh loang chữ / dốc đá café / chia điếu thuốc đen / ghi nợ bản tình"…
Khi Đào Đức Tuấn dùng từ "ân thủy" với miền đất này, tôi nghĩ anh đã chạm vào phần uyên nguyên tấm lòng đất trời cao nguyên diệu vợi.
Trên những lối tình của người giang hồ chữ, xin mở lòng chia sẻ với những "câu thơ trong veo neo giữ phận người"…
Nhà thơ, nhà báo Đào Đức Tuấn sinh năm 1971 tại Phú Yên, cựu học sinh Trường PTTH chuyên Lê Quý Đôn Nha Trang, cựu sinh viên Đại học Đà Lạt.
Sách đã in: Chiều chậm (Thơ, 2005); Ôm tròn trái đất (Thơ thiếu nhi, 2010); Thinh không (Thơ, 2017); Những mảnh tình khát vọng (Chân dung - Ghi chép, 2024); Lối tình (Thơ chọn, 2024).
Vương triều nhà Lý được thiết lập vào năm 1009. Kể từ khi Lý Công Uẩn lên ngôi đến vị vua cuối cùng là 9 đời vua và kéo dài 216 năm. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu sử học thì đây là giai đoạn phục hưng toàn diện của đất nước với một nền kinh tế và quốc phòng khá ổn định, thống nhất và là thời kỳ phát triển rực rỡ của lịch sử nước ta. Trong đó, ngoài xây dựng thể chế chính trị và quân sự thì các chính sách quản lý ruộng đất, phát triển nông nghiệp là yếu tố tạo tiền đề để nhà Lý xây dựng một nền văn hóa Thăng Long và văn minh Đại Việt lúc bấy giờ.
Theo các nguồn tư liệu lịch sử còn ghi lại, sau khi lên ngôi vua tại kinh thành Hoa Lư, tiếp quản cơ đồ của nhà Tiền Lê, ban đầu vua Lý Thái Tổ vẫn giữ nguyên thể chế chính chính trị cũ. Sau khi chuyển triều đình từ Hoa Lư ra Thăng Long, nhà Lý mới bắt đầu củng cố và xây dựng một chế độ chính trị riêng phù hợp với chính thể đương thời. Đặc biệt, các chính sách về ruộng đất có sự phân bố lại với một số điểm tương đồng và khác biệt so với thời Lê Sơ trước đó và thời Trần về sau. Cụ thể, ruộng đất thời Lý có các loại sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, hay nói theo cách gọi thời đó là quan điền và dân điền.
Ruộng quốc khố, hay quan điền là một trong hai loại ruộng công (ruộng thuộc sở hữu của Nhà nước, đã khai khẩn hoặc còn bỏ hoang) trực tiếp do nhà nước quản lý, canh tác bằng trâu cày, nông cụ của nhà nước, với các lực lượng sản xuất nô tì, tội nhân của triều đình được gọi là cảo điền nhi hay cảo điền hoành. Hoa lợi thu được dự trữ trong kho của triều đình để dùng cho việc trong cung và triều đình. Vì vậy, tô thuế ruộng quốc khố thường vào loại cao nhất.
Trong khi đó, hệ thống đồn điền là loại ruộng đất có được từ việc tổ chức khai hoang và sản xuất nông nghiệp ở các vùng ven sông, ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Dưới thời vua Lý Thái Tông thì tình hình khai hoang được đẩy mạnh, trong đó tù binh là lực lượng chủ yếu.
Loại ruộng đất thứ ba là ruộng tịch điền, là loại ruộng nghi lễ mà hoa lợi chủ yếu dùng vào việc cúng tế lớn của nhà nước trung ương (có từ thời Tiền Lê). Các vị vua nhà Lý đều rất quan tâm đến loại ruộng đất này, hàng năm các vua đều tham dự lễ cày ruộng tịch điền và trực tiếp cày để khuyến khích lao động nông nghiệp trong buổi đầu xây dựng chế độ phong kiến dân tộc. Diện tích ruộng tịch điền thời Lý nói chung không rộng, chủ yếu tập trung ở vùng xung quanh kinh thành Thăng Long, khu vực đông dân và khu vực có nghề nông phát triển.
Loại ruộng thứ tư thuộc sự quản lý trực tiếp của nhà nước là ruộng sơn lăng. Đây là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua. So với ruộng tịch điền thì diện tích ruộng sơn lăng còn nhỏ hơn, vì đây chỉ là ruộng đất lăng tẩm của các vua, chuyên lấy hoa lợi vào việc bảo vệ và sửa chữa các lăng. Thời Lý, nhà nước có một ít ruộng sơn lăng ở Đình Bảng (Bắc Ninh ngày nay), thời Trần có ở Thái Đường (Thái Bình ngày nay)... Khác với tịch điền, ruộng sơn lăng không mất đi mà được bảo lưu dưới hình thức ruộng tế hay ruộng công, do làng xã quản lý. Ruộng sơn lăng thường được chọn đặt ở quê hương nhà vua.
Bên cạnh đó còn có những loại ruộng công mà nhà nước chỉ quản lý gián tiếp đó là ruộng công làng xã, ruộng thác đao và ấp thang mộc. Ruộng công làng xã là ruộng giao cho các làng xã quản lý, do những người lính nhàn thời bình về cày cấy (theo chính sách "ngụ binh ư nông"). Hoa lợi thu được từ ruộng này để nuôi quân. Ruộng thác đao và ấp thang mộc là ruộng ban thưởng cho quan lại, công thần. Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý, ruộng thác đao chỉ dành cho một đời công thần, không truyền được cho con cháu và công thần cũng chỉ được hưởng phần thuế thu từ ruộng đó. Ấp thang mộc hay thực ấp là vùng đất được ban cho quan lại gồm một số lượng hộ dân cùng ruộng đất chịu sự quản lý của họ, được nhà Lý áp dụng khá rộng rãi. Nhưng, khi người được phong qua đời thì đương nhiên dòng họ đó hết quyền lợi và số hộ trở về với triều đình.
Còn về dân điền hay còn gọi là tư hữu, PGS.TS Sử học Nguyễn Thị Phương Chi, Viện Sử học cho biết: “Sở hữu tư của nhà Lý có 3 nội dung chính là sở hữu của các thế gia và sở hữu của nông dân, các quan lại cao cấp. Trong đó, ruộng đất của các thế gia và nông dân là rất lớn mà đến nay chúng ta vẫn biết đến và tìm được trong tư liệu của “Đại Việt Sử ký toàn thư” bằng những ghi chép qua các việc tranh chấp ruộng đất và tịch thu ruộng đất. Điều đó chứng tỏ việc sở hữu nông dân cũng đã từng khá phổ biến”.
Về dân điền, ngoài đất thuộc sở hữu của quan lại cao cấp và sở hữu của nông dân, còn có loại đất thuộc sở hữu của nhà chùa. Cụ thể, chùa Keo ở Thái Bình ngày nay, vào thời Lý, đã được các vua Lý cúng 1.731 mẫu và 2 sào.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Thị Phương Chi, song hành với việc ban bố các chế độ ruộng đất, nhà Lý rất chú trọng phát triển nông nghiệp, thông qua việc thực hiện các lễ tịch điền, ban hành các chính sách khuyến nông, bảo vệ sức kéo và chính sách đắp đê giữ nước...
PGS.TS Đại tá Lê Đình Sỹ, nguyên Phó Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự phân tích một số dẫn chứng liên quan đến chính sách phát triển nông nghiệp của các vua Lý: “Về mặt kinh tế thì Nhà nước triều Lý đưa ra nhiều chính sách khuyến nông và phát triển công thương nghiệp. Có nhiều tài liệu đã nói là vua Lý và các đại thần như Lý Thường Kiệt rất coi trọng nông nghiệp, bảo vệ sức kéo nông nghiệp. Và chính đó là mục tiêu để xây dựng nước giàu, dân mạnh, quốc phú, binh cường của thời Lý”.
Để phát triển nông nghiệp, các vua triều Lý còn cho đắp đê giữ nước, đào kênh, mương để tưới, tiêu. Cụ thể, dưới triều vua Lý Nhân Tông, việc đắp đê sông Như Nguyệt, tức sông Cầu ngày nay, đã được tiến hành vào năm 1077. Theo “Đại Việt Sử ký toàn thư” vào thời vua Lý Nhân Tông, một hệ thống đê điều đã được đắp ở cả phía trong và ngoài kinh thành. Đến năm 1108, triều Lý lại cho đắp đê ở phường Cơ Xá, đoạn đê sông Hồng, nay thuộc phường Bắc Biên, quận Long Biên, Hà Nội. “Đại Việt sử ký toàn thư” còn ghi rằng nhà Lý nhiều lần xuống chiếu cấm giết trâu bò để bảo vệ nguồn sức kéo chính cho sản xuất nông nghiệp.
Theo TS Sử học Nguyễn Hữu Tâm, nguyên Giám đốc Thư viện Viện sử học, ngoài các chính sách khuyến nông, bảo vệ mùa màng, các vua thời Lý còn thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” (nghĩa là gửi binh lính vào nông nghiệp, cho quân lính lao động sản xuất ở địa phương trong một khoảng thời gian xác định). "Chính sách này bắt đầu vào thời Lý đã được xây dựng và đi vào thực tế. Các quân đều được chia theo phép “ngụ binh ư nông”. Thí dụ họ được chia làm 5 phiên thì có 4 phiên về làm nông nghiệp 1 phiên ở lại làm quân và sản xuất tự túc lương thực. Việc này đã tạo một không khí phấn khởi trong toàn dân”.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, chính sách “ngụ binh ư nông” phản ánh tư duy nông binh bất phân (không phân biệt quân đội và nhân dân), ở đâu có dân là ở đó có quân, phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một đất nước vừa sản xuất vừa đánh giặc. Bên cạnh đó, chính sách này cũng thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa quân và dân, một yếu tố quan trọng giúp nước ta chiến thắng trong những trận đánh lớn. Đây có thể coi là nét đặc sắc trong nghệ thuật tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang của thời phong kiến ở nước ta mà thời Lý đã sớm hình thành. Chính sách này được áp dụng qua nhiều triều đại và để lại những bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong buổi đầu dựng nước, nhà Lý đã từng bước xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp dựa trên một cơ cấu phân định rõ ràng về chế độ quản lý, sở hữu các loại đất đai. Đây là cơ sở để nhà nước quản lý được tài sản của mình đồng thời phản ánh thiết chế, trật tự xã hội nhà Lý đương thời. Đó cũng là một trong những yếu tố góp phần xây dựng vương triều Lý ổn định, thịnh trị và lâu dài.
Hơn 1.000 đã trôi qua nhưng những chính sách về quản lý ruộng đất và phát triển kinh tế nông nghiệp của thời Lý vẫn có giá trị với những bài học quý về giữ nước và dựng nước.
Mời nghe nội dung bài viết tại đây: